:: Tưởng Năng Tiến ::
...Số người Việt may mắn hơn, hiện
đang phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại
Tây Dương - giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược
lại.
Những kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi
kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt
Kiều về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu
trăm Mỹ Kim mà có thể là đến sáu ngàn Ðô La, hay nhiều hơn nữa...
***
"Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục
là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới." -
Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN, chi nhánh TP HCM
Trang Câu Lạc Bộ Kỹ Thuật Việt
Kiều đăng tải một bài viết “Cuộc Di Cư Lớn Nhất Của Cá Hồi Đỏ Trong
100 Năm” khá thú vị. Xin ghi lại toàn văn:
Khoảng 15.000 người đã đổ về tỉnh
British Columbia của Canada để chứng kiến một trong những hiện tượng bí ẩn của
tự nhiên: cuộc di cư khổng lồ của cá hồi đỏ, được cho là lớn nhất trong 1 thế
kỷ trở lại đây.
Dự kiến, khoảng từ 6-8 triệu con cá
hồi đỏ sẽ di cư tới sông Adams thuộc khu vực Shuswap của tỉnh British Columbia
trong năm nay và đây được xem là cuộc di cư lớn nhất của cá hồi đỏ kể từ năm
1913.
Cá hồi đỏ là một trong các loại cá
sống ở nước mặn và sinh sản ở nước ngọt. Cá hồi đỏ thường đẻ trứng trong vùng
nước nông trên sông Adams vào tháng 10 hàng năm. Sau khi phát triển trong vùng
nước ngọt khoảng 1 năm, những con cá nhỏ nở ra từ trứng sẽ di cư ra biển và
sống ở đó khoảng 3 năm rồi quay trở lại chính nơi chúng được sinh ra.
Loài cá hồi khi di chuyển định hướng
bằng mùi. Mỗi con cá nhớ đều nhớ mùi của dòng sông nơi nó sinh ra. Khi di
chuyển qua đại dương trở về con sông sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó
một cách hoàn toàn bản năng vì mùi vị thân quen càng gần càng trở nên rõ rệt.
Khi vào lại vùng nước ngọt, cá hồi sẽ
không ăn và chuyển sang màu đỏ sáng.
Cá hồi có khả năng bơi ngược sông,
vượt qua các dòng nước chảy xiết trong hành trình dài gần 500km từ biển tới
sông Adams. Sau khi đã trở về nhà, chúng đẻ trứng rồi cuối cùng kiệt sức và
chết. Trứng sau đó nở ra con non và con non lại hành trình ra biển.
Hiện tượng di cư bí ẩn của cá hồi
luôn thu hút sự quan tâm của du khách đến với sông Adams. Tại công viên
Roderick Haig-Brown cạnh sông Adams - địa điểm quan sát cá hồi đẻ trứng tốt
nhất, bầu không khí tại khu vực vốn yên tĩnh này đã trở nên nhộn nhịp giống lễ
hội đường phố.
Brian Riddell, chủ tịch kiêm giám đốc
điều hành Quỹ cá hồi Thái Bình Dương, gọi cuộc di cư khổng lồ lần này là “điều
bất ngờ thú vị” khi số cá hồi đỏ di cư nhiều gấp đôi so với dự đoán trước đó.
Cá hồi Dại Tây Dương (Atlantic
salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về từ sông ra biển và ngược lại nhiều
lần mà không hề do dự hay nao núng, dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến
hàng ngàn dặm, với vô số khó khăn và chướng ngại.
Bản năng về nguồn của cá hồi, tất
nhiên, đã được loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân
tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm
cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.
Xét về số lượng, mức sản xuất của
người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách
thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là điều cần cần phải được lưu tâm và học hỏi.
Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá hồi
ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ tinh để
mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau đó, chúng sẽ
được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời “tha phương cầu thực.”
Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở
biển từ sáu tháng đến năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” đuợc từ trường của lòng
đất và sự chuyển động của hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến
bờ, giác quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê
nhà - tức sông xưa bến cũ - và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến tận nơi sinh
nở.
Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa
sông để giúp cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ
tạo ra một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi
xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới di động. Màng luới này chuyển động không
ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào... hộp!
Nói tóm lại là người Nhật thả cá hồi
con ra biển, theo kiểu “đem con bỏ chợ,” để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng
theo bản năng trở về, họ dụ cho cá vào nhà máy để đóng hộp, và mang bán.
Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc)
là nhiều. Bởi vậy, có kẻ bắt chiếc. Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam (tên kêu gọn thường dùng là Việt Cộng) cũng học theo cách làm ăn không vốn
gần như vậy. Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người để kinh doanh, thay cá.
Từ năm 1978 cho đế năm 1990, bằng
hình thức này hay hình thức khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất là vài triệu
người dân ra biển. Người ta ước tính rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá
hồi rời bến sông ra đi thì ít nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi
săn cho loài người, cho loài chim, hoặc những loài cá khác. Tương tự, trong số
mấy triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả - tối thiểu - cũng phải một phần ba
đã vong mạng.
Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì
bị xô đuổi một cách lạnh lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận.
Nơi đây thuyền bè của họ thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh
giữa trời nước bao la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng
không còn đủ lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.
Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ
biến thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị Quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội.
Đám dân “trôi sông lạc chợ” này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài,
cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.
Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi
hương một lần rồi chết thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19
tháng 6 năm 1988 - đã có thời gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á
- cũng mang số phận y như vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn
có dịp ra đi nữa. Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông - khi phần đất này
còn thuộc Anh - Anh Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ Kim mỗi đầu
nguời để Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị
hành hạ hay ngược đãi!
Số người Việt may mắn hơn, hiện đang
phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây
Dương - giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược
lại. Những kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi
kiếm và để dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt
Kiều về thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu
trăm Mỹ Kim mà có thể là đến sáu ngàn Ðô La, hay nhiều hơn nữa.
“Lượng kiều hối nhiều khả năng đạt 12
tỷ USD năm 2014,” theo như tin loan của Đài Tiếng Nói Việt Nam - nghe được
vào hôm 30 tháng 11 năm 2014. Cùng thời điểm này, Nguyễn Hoàng Minh, (Phó
Giám đốc NHNN - chi nhánh TP HCM) cho biết: “Năm 2014 Việt Nam sẽ tiếp tục là
một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế giới.” Hà Nội có lý do
để hãnh diện về thành quả này - thành quả kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ
tiêu - về kỹ nghệ xuất và nhập cảng người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được
quyền bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi nuớc những con nguời cùng quẫn và sôi xục
bất mãn, rồi “thu về” những Việt kiều yêu nuớc và giàu sang.
Thiệt khoẻ!
S.T.T.D. Tưởng
Năng Tiến
No comments:
Post a Comment